Tư vấn pháp luật Hành chính

Tôi xin nhờ Công ty tư vẫn cho tôi tình huống như sau:

Đầu năm 1993 bà A có nhận chuyển nhượng diện tích 1.500m2 thửa đất số 44, tờ bản đồ 22, tại khi 3 xã K, huyện M, tỉnh H. Qúa trình sử dụng, bà đã xây dựng nhà ở ổn định, nộp thuế đầy đủ và không có ai tranh chấp từ đó dến nay. Bà cũng đã nhiều lần làm hồ sơ xin đăng ký quyền sử dụng đất nhưng đều bị trả hồ sơ.

Năm 2019 bà tiếp tục nộp hồ sơ với đầy đủ giấy tờ hợp pháp theo quy định của Luật đất đai. Hồ sơ xin cấp của bà đã hoàn thành ở xa, gia đình bà đã nộp đủ các khoản thuế và truy thuế đất ở ngược lại những năm trước đấy. Xã K cũng đã tiến hành xác định ranh giới thửa đất số, theo hiện trạng sử dụng đất và chuyển hồ sơ đến UBND huyện M làm thủ tục. Nhưng khi hồ sơ đến Phòng tài nguyên và môi trường thì bị ông Trưởng phòng không giải quyết và trả lại hồ sơ. Gia đình bà đã nhiều lần khiếu lại.

Ngày 25/04/2019, UBND huyện M có công văn số 99/CV-UB giải quyết khiếu nại về việc Phòng TN&MT trả lại hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ của bà A. Nội dung công văn: “Không công nhận nội dung khiếu nại của bà Avì khiếu nại không có cơ sở. Yêu cầu bà A kê khai lại hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo đúng mục đích sử dụng đất và làm đầy đủ thủ tục để cấp có thẩm quyền xem xét cấp GCNQSDĐ theo quy định hiện hành.” Ngày 20/05/2019 bà A nhận được công văn của UBND huyện M.

Nay bà A muốn khởi kiện, Yêu cầu tòa án buộc UBND huyện M thu hồi lại công văn số 99/QĐ-UB ngày 25/04/2019 của UBND huyện M. Buộc UBND huyện M phải tiến hành việc cấp giấy CNQSDĐ cho hộ gia định bà A. Xin luật sư trả lời cho tôi biết:

1. Bà A có quyền khởi kiện không?

2. Đối tượng khởi kiện trong vụ việc là công văn 99/QĐ-UBN ngày 25/04/2019 có đúng không?

3. Đương sự trong vụ án là những ai

4. Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc này.

 

Căn cứ vào nội dung trình bày của bà A thì luật sư xin trả lời như sau:

1. Chủ thể có quyền khởi kiện

Thứ nhất: Bà A phải có đầy đủ năng lực pháp luật tố tụng hành chính và Năng lực hành vi tố tụng hành chính theo quy định tại điều 54, BLTTHC năm 2015 như sau:

“1. Năng lực pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng hành chính như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 2. Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng hành chính. 3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi tố tụng hành chính của họ được xác định theo quyết định của Tòa án. 4. Đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật. 5. Đương sự là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật.”

Thứ hai: Bà A phải là chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định tại khoản 1, Điều 115 BLTTHC năm 2015 quy định như sau: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.”

2. Xác định đối tượng khởi kiện

Theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 3 BLTTHC năm 2015 ta hiểu QĐHC và HVHC như sau: "1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 3. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. 4. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại khoản 3 Điều này mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Như vậy, trong vụ việc của bà A thì Đối tượng khởi kiện trong vụ án được xác định như sau:

Một là: Hành vi hành chính bị kiện là Hành vi hành chính của UBND huyện M không giải quyết hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà A.

Hai là: Quyết định hành chính bị kiện là Công văn số 99/CV-UBND ngày 20/03/2020 của UBND huyện M trả lời giải quyết khiếu nại về việc Phòng TN&MT trả lại hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ của bà A. Đây là quyết định hành chính của UBND huyện M giải quyết việc khiếu nại của bà A.

3. Thời hiệu khởi kiện

Theo quy định tại khoản 1 Điều 116, BLTTHC năm 2015 thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

“1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.”

Và tại Khoản 3, Điều 116 quy định:

“3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại.”

=> Theo như sự việc bà A cung cấp thì năm 2019 bà có làm hồ sơ gửi đến xã và hồ sơ lên đến huyện và bị trả lại và gia đình bà có đơn khiếu nại nhiều lần và ngày ngày 25/04/2019 UBND huyện có công văn 99 giải quyết khiếu nại và ngày 20/06/2019 bà A nhận được quyết định này.

Như vậy, theo thời gian này và theo quy định của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết vụ việc của bà A vẫn còn.

4. Đương sự trong vụ việc

Theo khoản khoản 7, khoản 8, khoản 9 Điều 3, BTTHC năm 2015 quy định đương sự trong vụ án gồm :

“7. Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

8. Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri).

9. Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện.”

Như vậy, ở trong vụ việc của bà A ta xác định:

Một là: Người khởi kiện- Bà A

Hai là: Người bị kiện: UBND huyện M và chủ tịch UBND huyện M

Ba là: Người liên quan: UBND xã K

5. Tòa án có thẩm quyền giải quyết

Theo quy định khoản 4, Điều 32 BLTTHC năm 2015 thì: “4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.”

Như vậy, thì vụ việc của bà A thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh H.